Skip to content
  • Giới thiệu
  • Bảng giá
  • Hướng dẫn sử dụng
  • English
Dữ Liệu Pháp LuậtDữ Liệu Pháp Luật
    • Văn bản mới
    • Chính sách mới
    • Tin văn bản
    • Kiến thức luật
    • Biểu mẫu
  • -
Trang chủ » Văn bản pháp luật » Quyền dân sự » Nghị định 764-TTg
  • Nội dung
  • Bản gốc
  • VB liên quan
  • Tải xuống

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 764-TTg

Hà Nội, ngày 08 tháng 5 năm 1956

 

NGHỊ ĐỊNH

CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 764-TTG, NGÀY 8/5/1956 BAN HÀNH BẢN ĐIỀU LỆ ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ

NGHỊ ĐỊNH:

Điều 1: Nay ban hành bản Điều lệ đăng ký hộ tịch kèm theo nghị định này.

Điều 2: Bản điều lệ này bãi bỏ các thể lệ về đăng ký hộ tịch đã ban hành trước đây.

Điều 3: Bản điều lệ này thi hành kể từ ngày được công bố.

Điều 4: Ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

 

 

TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG




Phan Kế Toại

 

ĐIỀU LỆ

ĐĂNG KÝ HỘ TỊCH

Mục I : ĐIỀU KHOẢN CHUNG

Điều 1: Bản điều lệ này quy định những nguyên tắc và thủ tục đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn, sửa chữa các điều đã đăng ký ; ghi chú các việc thay đổi về hộ tịch và cấp phát giấy chứng nhận các việc ấy.

Điều 2: Việc đăng ký hộ tịch do Uỷ ban hành chính cấp cơ sở phụ trách (Uỷ ban hành chính xã, thị trấn, thị xã, khu phố) và phải làm tại trụ sở Uỷ ban hành chính có mặt các người có quan hệ như người đương sự, người đứng khai, người làm chứng tuỳ theo từng loại việc.

Giấy chứng nhận hộ tịch do chủ tịch Uỷ ban hành chính ký và đóng dấu Uỷ ban; chủ tịch có thể uỷ quyền cho phó chủ tịch hay một uỷ viên ký thay.

Điều 3: Trong sổ hộ tịch không được viết tắt, không được tẩy hoặc viết đè chữ nọ lên chữ kia, không được viết hai thứ mực; những chữ về ngày, tháng, năm không được viết bằng chữ số.

Nếu có sửa chữa điều gì thì phải chú thích ở dưới là xóa hay thêm mấy chữ và phải do uỷ viên phụ trách ký nhận.

Khi ghi chép xong phải đọc lại cho mọi người nghe nhận là đúng và ký tên. Nếu có người không ký được thì Uỷ ban phải ghi rõ.

Đăng ký xong, Uỷ ban phải cấp ngay cho người đứng khai một bản sao không lấy tiền.

Điều 4: Mỗi loại việc hộ tịch phải đăng ký vào một thứ sổ riêng; mỗi thứ sổ phải có hai quyển làm theo các mẫu đính kèm bản điều lệ này.

Đến cuối năm sau khi khoá sổ, thì gửi một quyển lên Uỷ ban hành chính tỉnh hay thành phố, và lưu một quyển ở Uỷ ban hành chính cấp cơ sở.

Điều 5: Đỗi với những việc sinh, tử, kết hôn trước ngày công bố thi hành bản điều lệ này, nếu chưa đăng ký thì có thể xin đăng ký quá hạn; nếu đăng ký rồi mà sổ sách giấy tờ bị thất lạc không xin được bản sao hoặc chỉ làm giấy khai danh dự, thì có thể xin đăng ký lại. Người đương sự sẽ làm đơn xin đăng ký ở nơi đã xảy ra sự việc. Trường hợp đặc biệt có thể xin đăng ký ở nơi hiện đang cư trú.

Điều 6: Sổ sách hộ tịch cũ và giấy chứng nhận hộ tịch cũ của chính quyền đối phương để lại, giấy chứng nhận hộ tịch của chính quyền miền Nam nói chung được công nhận.

Khi cấp bản sao cho nhân dân, Uỷ ban hành chính sẽ làm theo mẫu của bản điều lệ này.

Điều 7: Cán bộ, nhân viên nào vì sơ xuất hoặc cố ý làm hư hỏng, mất mát sổ sách hộ tịch, làm sai hoặc làm chậm việc đăng ký sẽ bị phạt theo pháp luật.

Điều 8: Người có nhiệm vụ xin đăng ký mà để quá hạn không khai, sẽ bị phê bình và có thể bị phạt vi cảnh.

Ai tự ý sửa chữa hoặc giả mạo giấy chứng nhận hộ tịch sẽ bị phạt theo luật pháp.

Mục II: ĐĂNG KÝ VIỆC SINH

Điều 9: Khi có việc sinh, phải đến khai với Uỷ ban hành chính sở tại trong hạn ba mươi ngày.

Điều 10: Người đứng khai là cha, mẹ đứa trẻ ; có thể là thân nhân, láng giềng hay người đã chứng kiến việc sinh. Khi đến khai phải trình giấy chứng nhận việc sinh do bác sĩ, y sĩ, y tá, bà đỡ cấp; hoặc giấy chứng nhận của trưởng xóm hay trưởng ban đại diện dân phố.

Trường hợp người cha hay mẹ đứa trẻ đứng khai thì không có giấy chứng nhận nói trên cũng được, nhưng phải có một người làm chứng.

Điều 11: Đối với trẻ con mới đẻ bị bỏ rơi thì việc đăng ký do chính quyền phụ trách. Ai trông thấy trẻ con mới đẻ bị bỏ rơi phải báo với Công an sở tại, Công an lập biên bản, tìm người nuôi đứa trẻ, rồi gửi biên bản sang Uỷ ban hành chính để đăng ký.

Điều 12: Nếu có việc sinh trên tàu hay trên xe, thì người phụ trách tàu hay xe phải cấp giấy chứng nhận việc sinh cho người mẹ để sau này khai sinh cho đứa trẻ.

Mục III: ĐĂNG KÝ VIỆC KẾT HÔN

Điều 13: Việc kết hôn phải đăng ký ở nơi người chồng hoặc vợ đang cư trú, và phải báo trước tám ngày với Uỷ ban hành chính sở tại. Khi xin đăng ký thì có hai vợ chồng phải cùng với hai người làm chứng đến Uỷ ban hành chính để khai và ký vào sổ.

Trường hợp người vợ hay người chồng chưa đến mười tám tuổi, thì phải có bố hay mẹ hoặc người giám hộ cùng đến khai và ký vào sổ.

Điều 14: Trước khi đăng ký, Uỷ ban hành chính phải nhắc lại cho hai bên quyền lợi và nghĩa vụ của họ. Sau khi nghe hai bên nói rõ bằng lòng lấy nhau. Uỷ ban tuyên bố cho họ chính thức kết hôn và đăng ký.

Điều 15: Vợ chồng đã ly hôn nay muốn kết hôn lại với nhau cũng phải xin đăng ký như đã nói ở các điều 13, 14 và ghi rõ là kết hôn lại.

Mục IV: ĐĂNG KÝ VIỆC TỬ

Điều 16: Khi có người chết, phải đến khai với Công an sở tại trong hạn hai mươi bốn giờ để xin phép mai táng. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày chết, phải đem giấy phép mai táng đến Uỷ ban hành chính nơi chết xin đăng ký.

Người đứng khai là thân nhân người chết, có thể là láng giềng hoặc bạn bè quen thuộc.

Điều 17: Khi có người chết trong các bệnh viện công hay tư, nhà hộ sinh tư, trong cơ quan, xí nghiệp, trường học, công trường, nông trường, hàng cơm, quán trọ, v.v. thì người phụ trách hoặc người chủ các nơi đó có nhiệm vụ khai với Công an sở tại để xin phép mai táng.

Nếu thời hạn bảy ngày đã qua, thân nhân người chết không đến thì người phụ trách hoặc người chủ các nơi đó phải khai tử với Uỷ ban hành chính sở tại.

Điều 18: Khi có người chết trong các trại cải tạo, Ban Giám thị phải khai tử với Uỷ ban hành chính sở tại.

Điều 19: Khi có người chết ở trên tàu hay xe, thì tới bến hay ga đầu tiên, người phụ trách tàu hay xe, người phụ trách tàu hay xe phải báo với Công an sở tại. Công an đến khám nghiệm cho mai táng, rồi khai tử với Uỷ ban hành chính.

Trường hợp có người chết ngoài bể, thì khi tàu đến bến đầu tiên, viên thuyền trưởng phải báo Công an biết và phải khai tử với Uỷ ban hành chính nơi có bến ấy.

Điều 20: Khi xảy ra tai nạn có nhiều người chết còn xác, hoặc chết không tìm thấy xác, như sụt hầm, bị đắm thuyền, đắm tàu ngoài bể, lụt bão to, v.v. Uỷ ban hành chính sở tại lập biên bản chứng nhận việc ấy và đăng ký.

Điều 21: Khi thi hành xong một án tử hình, Toà án phải báo với Uỷ ban hành chính sở tại để đăng ký.

Điều 22: Trường hợp có người chết vô thừa nhận thì Công an sở tại lập biên bản, cho mai táng, rồi gửi biên bản sang Uỷ ban hành chính để đăng ký.

Điều 23: Trường hợp người đứng khai không phải là thân nhân người chết, Uỷ ban hành chính đã nhận đăng ký có nhiệm vụ gửi bản sao khai tử cho gia đình người chết.

Điều 24: Trẻ em mới đẻ ra chết ngay chỉ phải báo với Công an sở tại để xin phép mai táng, không phải khai sinh cũng không phải khai tử. Trẻ con đẻ ra chưa khai sinh đã chết thì phải báo với Công an để xin phép mai táng rồi phải đồng thời khai sinh và khai tử.

Mục V: SỬA CHỮA CÁC ĐIỀU ĐÃ ĐĂNG KÝ VÀ GHI CHÚ CÁC VIỆC THAY ĐỔI VỀ HỘ TỊCH

Điều 25: Khi đã đăng ký vào sổ hộ tịch, mà sau có đơn xin ghi thêm những điều thiếu sót, sửa chữa những điểm sai nhầm thì nếu là sai nhầm thiếu sót thường, Uỷ ban đã nhận đăng ký có quyền sửa chữa hoặc bổ sung. Đối với những điều sai nhầm thiếu sót quan trọng thì phải được Uỷ ban hành chính cấp trên cho phép.

Điều 26: Sau khi đã đăng ký các việc sinh và kết hôn, nếu có sự thay đổi về tình hình hộ tịch của người đương sự như ly hôn, thay đổi quốc tịch, thay đổi họ tên, nhận con đẻ, truy nhận cha mẹ đẻ, nuôi con nuôi, v.v. thì khi nhận được quyết định về những sự thay đổi đó, Uỷ ban hành chính phải ghi chú ngay vào bản lưu trong hộ tịch.

Nếu trước chưa đăng ký việc sinh hoặc việc kết hôn, thì người đương sự phải xin đăng ký quá hạn, rồi Uỷ ban mới được ghi chú và cấp bản sao. Các việc ghi chú phải do Uỷ ban hành chính ký nhận.

Điều 27: Khi đã có quyết định của Uỷ ban hành chính hay Toà án công nhận một việc mất tích, thì thân nhân người mất tích đem bản trích lục của quyết định ấy đến Uỷ ban hành chính để xin đăng ký vào sổ khai tử.

Mục VI: ĐỐI VỚI VIỆT KIỀU VỀ NƯỚC

Điều 28: Giấy chứng nhận hộ tịch do Đại sứ, Lãnh sự hay đại diện ngoại giao của Nước Việt Nam dân chủ công hoà cấp cho việt kiều ở nước ngoài, có giá trị như giấy chứng nhận cấp ở trong nước.

Điều 29: Giấy chứng nhận hộ tịch do chính quyền nước ngoài cấp, chỉ có giá trị sau khi được Uỷ ban hành chính tỉnh hay thành phố nơi người đương sự hiện đang cư trú xét và công nhận.

Điều 30: Việt kiều nào không có giấy chứng nhân hộ tịch có thể tạm thời làm giấy khai danh dự.

Mục VII: ĐỐI VỚI NGOẠI KIỀU

Điều 31: Đối với ngoại kiều cư trú ở Việt Nam thì các việc sinh, tử đều phải đăng ký theo điều lệ này.

Đối với việc kết hôn, nếu họ tự nguyện đến xin đăng ký thì Uỷ ban đăng ký theo điều lệ này.

Mục VIII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 32: Bộ Nội vụ sẽ quy định chi tiết việc thi hành bản điều lệ này.

Điều 33: Đối với những vùng dân tộc thiểu số và đối với những người ở miền Nam ra Bắc, việc áp dụng bản điều lệ này sẽ có sự châm chước và sẽ do Bộ Nội vụ quy định sau.

Điều 34: Đối với quân nhân, thể lệ đăng ký việc tử trong thời kỳ chiến tranh sẽ do Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng nghiên cứu và quy định sau.

Hướng dẫn

Mục này được hướng dẫn bởi Điểm 1 Mục I Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956

Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956 thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Nội Vụ ban hành


Chính phủ mới ban hành một bản điều lệ đăng ký hộ tịch cải tiến và thống nhất các thể lệ hiện hành, đơn giản các sổ sách và thủ tục đăng ký, nhằm mục đích làm cho nhân dân khai báo và xin giấy tờ hộ tịch được dễ dàng và Chính phủ có cơ sở theo dõi thống kê các việc biến chuyển trong dân số. Thông tư này nêu lên một số điểm cần chú ý trong bản điều lệ mới vì tính chất tiến bộ hơn, hợp lý hơn của nó so với thể lệ cũ, đồng thời quy định mấy việc chính về chấn chỉnh tổ chức và sổ sách. cuối cùng là việc chuẩn bị thi hành.
I. NGUYÊN TẮC, ĐIỀU KIỆN VÀ CÁCH THỨC ĐĂNG KÝ
Nguyên tắc thứ 1: Từ nay mọi việc thuộc về thủ tục đăng ký hộ tịch đều do Ủy ban hành chính các cấp phụ trách.
Nguyên tắc thứ 2: Việc đăng ký hộ tịch thuộc quyền hạn và nhiệm vụ của các Ủy ban hành chính cấp cơ sở tức là Ủy ban hành chính các xã, thị xã, thị trấn, khu phố.
Nguyên tắc thứ 3: Mọi việc sinh, tử, kết hôn đều phải khai xin đăng ký với U.B.HC sở tại, có xuất trình các chứng cớ cần thiết và không được để lâu quá thời gian tối đa đã quy định. Áp dụng cho từng loại việc hộ tịch nguyên tắc này cần được giải thích thêm và cụ thể hóa trong một số trường hợp chính như sau:
1. Đăng ký việc sinh: Nếu nơi đứa trẻ mới sinh ra khác với nơi hiện cư trú của cha mẹ nó, thí dụ ở làng ra tỉnh đẻ, đẻ trong khi đi đường, đẻ trên tàu thủy, xe lửa, thì có thể khai với Ủy ban hành chính nơi cha mẹ hiện cư trú. Có một giấy chứng nhận hợp lệ thì cha hoặc mẹ, hoặc bà con bạn bè ai cầm đi khai xin đăng ký cũng được, không cần thêm người làm chứng nữa. Nếu không có giấy chứng nhận hợp lệ thì cha hay mẹ phải đến khai và phải có một người làm chứng.
Mục này được hướng dẫn bởi Điểm 1 Thông tư 1326-HCTP năm 1956

Thông tư 1326-HCTP năm 1956 thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Tư pháp ban hành


Thủ tướng phủ có ra nghị định số 764-TTg ngày 8 tháng 5 năm 1956 quy định điều lệ đăng ký hộ tịch và Bộ Nội vụ có thông tư số 6-NV-DC-TT ngày25-5-1956 hướng dẫn thi hành điều lệ này.
...
1) Về việc khai sinh
Nói chung những việc thay đổi về quan hệ cha con, mẹ con một khi có tranh tụng (như là con đẻ hoang xin truy nhận cha hay mẹ đẻ, chồng không thừa nhận con ngoại tình của vợ, truất quyền của cha mẹ nuôi đối với con nuôi, …) Toà án vẫn có trách nhiệm giải quyết.
Sau khi công nhận việc thay đổi nói trên, Toà án gửi một bản sao án văn cho Uỷ ban hành chính nơi người đương sự khai sinh để ghi chú những thay đổi vào bản lưu khai sinh.

Hướng dẫn

Mục này được hướng dẫn bởi Điểm 2 Mục I Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956

Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956 thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Nội Vụ ban hành


Chính phủ mới ban hành một bản điều lệ đăng ký hộ tịch cải tiến và thống nhất các thể lệ hiện hành, đơn giản các sổ sách và thủ tục đăng ký, nhằm mục đích làm cho nhân dân khai báo và xin giấy tờ hộ tịch được dễ dàng và Chính phủ có cơ sở theo dõi thống kê các việc biến chuyển trong dân số. Thông tư này nêu lên một số điểm cần chú ý trong bản điều lệ mới vì tính chất tiến bộ hơn, hợp lý hơn của nó so với thể lệ cũ, đồng thời quy định mấy việc chính về chấn chỉnh tổ chức và sổ sách. cuối cùng là việc chuẩn bị thi hành.
I. NGUYÊN TẮC, ĐIỀU KIỆN VÀ CÁCH THỨC ĐĂNG KÝ
Nguyên tắc thứ 1: Từ nay mọi việc thuộc về thủ tục đăng ký hộ tịch đều do Ủy ban hành chính các cấp phụ trách.
Nguyên tắc thứ 2: Việc đăng ký hộ tịch thuộc quyền hạn và nhiệm vụ của các Ủy ban hành chính cấp cơ sở tức là Ủy ban hành chính các xã, thị xã, thị trấn, khu phố.
Nguyên tắc thứ 3: Mọi việc sinh, tử, kết hôn đều phải khai xin đăng ký với U.B.HC sở tại, có xuất trình các chứng cớ cần thiết và không được để lâu quá thời gian tối đa đã quy định. Áp dụng cho từng loại việc hộ tịch nguyên tắc này cần được giải thích thêm và cụ thể hóa trong một số trường hợp chính như sau:
...
2. Đăng ký việc tử: Trừ các trường hợp riêng biệt đã ghi rõ trong điều lệ, việc cho phép mai táng do Công an sở tại phụ trách, kể cả đối với các việc tử xảy ra trong các bệnh viện công, các nhà hộ sinh công. khi nào cần thiết sẽ mời bác sĩ, y sĩ khám nghiệm và cho ý kiến về phương diện chuyên môn khoa học, thí dụ khi đương có bệnh dịch tễ, khi có tình nghi án mạng.
Muốn xin đăng ký việc tử nhất thiết phải xuất trình giấy phép mai táng và chỉ xuất trình giấy ấy là đủ. Theo điều 24 thì trẻ con đẻ ra chết ngay cũng phải xin phép mai táng theo thường lệ, nhưng không phải khai sinh, cũng không phải khai tử. Trường hợp đẻ ra chưa được 24 tiếng đồng hồ đã chết cũng coi như là chết ngay.
Nếu đẻ ra sống được 24 tiếng đồng hồ rồi mới chết mà chưa kịp khai sinh thì phải đồng thời khai sinh và khai tử. Quy định chi tiết như vậy là để có thể thống kê được số trẻ hữu sinh vô dưỡng và có kế hoạch bảo vệ nhi đồng cho thích đáng.

Hướng dẫn

Mục này được hướng dẫn bởi Điểm 3 Mục I Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956

Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956 thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Nội Vụ ban hành


Chính phủ mới ban hành một bản điều lệ đăng ký hộ tịch cải tiến và thống nhất các thể lệ hiện hành, đơn giản các sổ sách và thủ tục đăng ký, nhằm mục đích làm cho nhân dân khai báo và xin giấy tờ hộ tịch được dễ dàng và Chính phủ có cơ sở theo dõi thống kê các việc biến chuyển trong dân số. Thông tư này nêu lên một số điểm cần chú ý trong bản điều lệ mới vì tính chất tiến bộ hơn, hợp lý hơn của nó so với thể lệ cũ, đồng thời quy định mấy việc chính về chấn chỉnh tổ chức và sổ sách. cuối cùng là việc chuẩn bị thi hành.
I. NGUYÊN TẮC, ĐIỀU KIỆN VÀ CÁCH THỨC ĐĂNG KÝ
Nguyên tắc thứ 1: Từ nay mọi việc thuộc về thủ tục đăng ký hộ tịch đều do Ủy ban hành chính các cấp phụ trách.
Nguyên tắc thứ 2: Việc đăng ký hộ tịch thuộc quyền hạn và nhiệm vụ của các Ủy ban hành chính cấp cơ sở tức là Ủy ban hành chính các xã, thị xã, thị trấn, khu phố.
Nguyên tắc thứ 3: Mọi việc sinh, tử, kết hôn đều phải khai xin đăng ký với U.B.HC sở tại, có xuất trình các chứng cớ cần thiết và không được để lâu quá thời gian tối đa đã quy định. Áp dụng cho từng loại việc hộ tịch nguyên tắc này cần được giải thích thêm và cụ thể hóa trong một số trường hợp chính như sau:
...
3. Đăng ký kết hôn: Muốn xin đăng ký việc kết hôn thì một hoặc cả hai bên nam nữ phải đến báo cho Ủy ban biết sáu ngày trước ngày định xin đăng ký. Mục đích của việc báo trước này là để cho Ủy ban hành chính có đủ thì giờ điều tra, nhận xét trước khi tuyên bố cho hai bên nam nữ chính thức thành vợ chồng trước pháp luật. Ngoài hình thức yết thị, Ủy ban có thể dùng mọi phương tiện công bố hay điều tra khác. nếu có điều gì trở ngại hoặc có người phản kháng thì việc điều tra càng thận trọng nhưng không được cố ý kéo dài. Giải quyết các việc trở ngại hay phản kháng thế nào, phải báo cho hai bên nam nữ và các người phản kháng biết. nếu họ không đồng ý thì phải báo cáo lên Ủy ban hành chính cấp trên trực tiếp quyết định. Gặp trường hợp hai bên nam nữ yêu cầu cấp bách và có lý do chính đáng, nếu Ủy ban hành chính xét không có gì nghi ngại thì thời hạn tám ngày có thể rút ngắn.
Mục này được hướng dẫn bởi Điểm 2 Thông tư 1326-HCTP năm 1956

Thông tư 1326-HCTP năm 1956 thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Tư pháp ban hành


Thủ tướng phủ có ra nghị định số 764-TTg ngày 8 tháng 5 năm 1956 quy định điều lệ đăng ký hộ tịch và Bộ Nội vụ có thông tư số 6-NV-DC-TT ngày25-5-1956 hướng dẫn thi hành điều lệ này.
...
2) Về việc kết hôn
Đối với những việc kiện ly hôn, Toà án vẫn giải quyết theo thủ tục áp dụng từ trước cho tới nay. Trường hợp xử ly hôn, Toà án gửi một bản sao án văn cho Uỷ ban hành chính nơi đã đăng ký việc kết hôn để ghi chú việc ly hôn vào bản lưu tờ khai kết hôn.
Đăng ký kết hôn cho quân nhân được hướng dẫn bởi Chỉ thị 3484-HTTK năm 1957

Chỉ thị 3484-HTTK năm 1957 về khai báo và xin đăng ký kết hôn cho quân nhân do Bộ Nội vụ ban hành


Điều lệ đăng ký hộ tịch ban đầu kèm theo nghị định số 764-TTg ngày 8-5-1956 của Thủ tướng phủ cũng áp dụng cho quân nhân như đối với cán bộ và nhân dân nói chung, trừ việc đăng ký khai tử trong thời chiến tranh như đã nói rõ trong điều 34. và trong thực tế anh chị em bộ đội cũng vẫn xin đăng ký sinh, tử, kết hôn theo thể lệ chung. Nhưng tại một vài địa phương, cũng đã xảy ra những vụ hiểu lầm, thắc mắc đáng tiếc giữa Ủy ban và anh em bộ đội trong vấn đề xin đăng ký kết hôn đã làm cho một số cán bộ hộ tịch có thái độ do dự , ngần ngại khi đăng ký kết hôn cho quân nhân, thiếu ý thức tích cực góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình cho anh chị em.
Để sửa chữa và chấm dứt tình trạng này, sau khi trao đổi ý kiến với Bộ Quốc phòng, Bộ phổ biến dưới đây một số đặc điểm và nguyên tắc và thủ tục đi phép về xây dựng gia đình trong nội bộ quân nhân:
1. Theo nguyên tắc, một quân nhân muốn lấy vợ hay chồng, về mặt pháp luật không bắt buộc phải có phép của cấp chỉ huy. Nhưng trong thực tế từ trước đến nay, tất cả quân nhân đều không tự ý mình lấy vợ hay chồng mà không có sự giúp đỡ ý kiến của đơn vị phụ trách mình. Cho nên mỗi khi một quân nhân xin nghỉ phép về thăm gia đình và kết hợp lấy vợ hoặc chồng thì trong giấy phép có ghi rõ trong mục “lý do nghỉ phép ” và khi cần thiết, đơn vị còn có giấy giới thiệu với chính quyền địa phương giúp đỡ quân nhân đó trong việc xây dựng gia đình được đúng đắn tốt đẹp. Do đó, mỗi khi có một quân nhân đến báo với Ủy ban để xin đăng ký kết hôn, nếu có trình thêm giấy nghỉ phép có ghi lý do nghỉ phép là để cưới vợ hay hơn nữa có thư giới thiệu của đơn vị phụ trách đề nghị giúp đỡ thì càng tốt, không có cũng không sao. Ủy ban không thể đòi đương sự trình giấy phép cưới vợ hoặc một thứ giấy tờ nào khác của đơn vị phụ trách. Trong mọi trường hợp, Ủy ban đều phải có thái độ tích cực giúp đỡ người quân nhân xây dựng gia đình được tốt.
2. Vì thời gian nghỉ phép của anh chị em quân nhân thường thường là chỉ được ít ngày, cho nên theo tinh thần giúp đỡ anh chị em xây dựng gia đình được dễ dàng và kịp thời, Bộ xin nhắc lại các Ủy ban địa phương, trước hết là các Ủy ban cấp cơ sở trực tiếp phụ trách việc đăng ký, trong những trường hợp có thể, nên rút ngắn thời gian tám ngày quy định cho thủ tục báo trước (xem lại thông tư số 2569-HTTK ngày 14-5-1957).

Hướng dẫn

Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 4, Điểm 5 Mục I Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956

Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956 thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Nội Vụ ban hành


Chính phủ mới ban hành một bản điều lệ đăng ký hộ tịch cải tiến và thống nhất các thể lệ hiện hành, đơn giản các sổ sách và thủ tục đăng ký, nhằm mục đích làm cho nhân dân khai báo và xin giấy tờ hộ tịch được dễ dàng và Chính phủ có cơ sở theo dõi thống kê các việc biến chuyển trong dân số. Thông tư này nêu lên một số điểm cần chú ý trong bản điều lệ mới vì tính chất tiến bộ hơn, hợp lý hơn của nó so với thể lệ cũ, đồng thời quy định mấy việc chính về chấn chỉnh tổ chức và sổ sách. cuối cùng là việc chuẩn bị thi hành.
I. NGUYÊN TẮC, ĐIỀU KIỆN VÀ CÁCH THỨC ĐĂNG KÝ
Nguyên tắc thứ 1: Từ nay mọi việc thuộc về thủ tục đăng ký hộ tịch đều do Ủy ban hành chính các cấp phụ trách.
Nguyên tắc thứ 2: Việc đăng ký hộ tịch thuộc quyền hạn và nhiệm vụ của các Ủy ban hành chính cấp cơ sở tức là Ủy ban hành chính các xã, thị xã, thị trấn, khu phố.
Nguyên tắc thứ 3: Mọi việc sinh, tử, kết hôn đều phải khai xin đăng ký với U.B.HC sở tại, có xuất trình các chứng cớ cần thiết và không được để lâu quá thời gian tối đa đã quy định. Áp dụng cho từng loại việc hộ tịch nguyên tắc này cần được giải thích thêm và cụ thể hóa trong một số trường hợp chính như sau:
...
4. Đăng ký quá hạn và đăng ký lại các việc xảy ra trước ngày ban hành điều lệ này. Thủ tục đăng ký quy định trong điều 5 có hơi khó khăn hơn, vì việc đã lâu ngày cần điều tra kỹ, nhưng không thi hành kỷ luật là chiếu cố đến các sự thiệt thòi của nhân dân do chế độ cũ, hoàn cảnh cũ đã gây nên.
5. Chế độ giấy khai danh dự: Chỉ tạm thời duy trì đối với những người cần chứng minh các việc hộ tịch xảy ra ở miền Nam hay ở nước ngoài. Giấy khai danh dự phải làm thành hai bản xin Ủy ban hành chính nơi người đứng khai hiện đương cư trú nhận thực chữ ký. một bản lưu ở văn phòng Ủy ban, một bản giao cho người đứng khai. Các giấy khai danh dự đã làm và đúng từ trước vẫn được công nhận.

Hướng dẫn

Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 6 Mục I Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956

Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956 thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Nội Vụ ban hành


Chính phủ mới ban hành một bản điều lệ đăng ký hộ tịch cải tiến và thống nhất các thể lệ hiện hành, đơn giản các sổ sách và thủ tục đăng ký, nhằm mục đích làm cho nhân dân khai báo và xin giấy tờ hộ tịch được dễ dàng và Chính phủ có cơ sở theo dõi thống kê các việc biến chuyển trong dân số. Thông tư này nêu lên một số điểm cần chú ý trong bản điều lệ mới vì tính chất tiến bộ hơn, hợp lý hơn của nó so với thể lệ cũ, đồng thời quy định mấy việc chính về chấn chỉnh tổ chức và sổ sách. cuối cùng là việc chuẩn bị thi hành.
I. NGUYÊN TẮC, ĐIỀU KIỆN VÀ CÁCH THỨC ĐĂNG KÝ
Nguyên tắc thứ 1: Từ nay mọi việc thuộc về thủ tục đăng ký hộ tịch đều do Ủy ban hành chính các cấp phụ trách.
Nguyên tắc thứ 2: Việc đăng ký hộ tịch thuộc quyền hạn và nhiệm vụ của các Ủy ban hành chính cấp cơ sở tức là Ủy ban hành chính các xã, thị xã, thị trấn, khu phố.
Nguyên tắc thứ 3: Mọi việc sinh, tử, kết hôn đều phải khai xin đăng ký với U.B.HC sở tại, có xuất trình các chứng cớ cần thiết và không được để lâu quá thời gian tối đa đã quy định. Áp dụng cho từng loại việc hộ tịch nguyên tắc này cần được giải thích thêm và cụ thể hóa trong một số trường hợp chính như sau:
...
6. Bổ sung và sửa chữa các điều đã đăng ký (điều 25): Tiêu chuẩn phân biệt rõ giữa sai lầm thiếu sót thông thường và sai lầm thiếu sót quan trọng rất khó quy định: căn bản là phải nhận định xem các việc bổ sung hay sửa chữa sẽ làm thay đổi giá trị chính xác của giấy tờ hộ tịch nhiều hay ít, ảnh hưởng lớn hay nhỏ đến quyền lợi của cá nhân đương sự hay của đa số nhân dân. Đây là mấy thí dụ có tính chất hướng dẫn: tên người làm chứng là Nguyễn Văn Tâm lại chỉ ghi là Nguyễn Tâm, tên người cha là Nguyễn Văn Xung lại ghi nhầm là Nguyễn Văn Sung thì Ủy ban hành chính đã nhận đăng ký có thể tự ý bổ sung và sửa chữa, nhưng nếu đã khai nhầm ngày tháng năm sinh của đứa trẻ, khai nhầm tên vợ hoặc tên chồng, lấy vợ lẽ mà không ghi chú rõ, thì phải được Ủy ban hành chính cấp trên trực tiếp xét và cho phép.

Hướng dẫn

Việc chuẩn bị thi hành Điều lệ này được hướng dẫn bởi Mục III Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956

Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956 thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Nội Vụ ban hành


Chính phủ mới ban hành một bản điều lệ đăng ký hộ tịch cải tiến và thống nhất các thể lệ hiện hành, đơn giản các sổ sách và thủ tục đăng ký, nhằm mục đích làm cho nhân dân khai báo và xin giấy tờ hộ tịch được dễ dàng và Chính phủ có cơ sở theo dõi thống kê các việc biến chuyển trong dân số. Thông tư này nêu lên một số điểm cần chú ý trong bản điều lệ mới vì tính chất tiến bộ hơn, hợp lý hơn của nó so với thể lệ cũ, đồng thời quy định mấy việc chính về chấn chỉnh tổ chức và sổ sách. cuối cùng là việc chuẩn bị thi hành.
...
III. CHUẨN BỊ THI HÀNH
1. Công bố. - Hình thức công bố thi hành bản điều lệ này ở các địa phương là một Nghị quyết của Ủy ban hành chính tỉnh hay thành phố. Việc chuẩn bị cần phải làm kỹ và mau để có thể công bố thi hành càng sớm càng tốt và không được để chậm quá ngày 01 tháng 8 năm 1956.
2. Phối hợp chỉ đạo. – Bộ Nội vụ đã có đề nghị với các Bộ có liên quan như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ Giao thông Bưu điện, Bộ Ngoại giao, nghiên cứu bản điều lệ mới và ra các chỉ thị cần thiết cho các thuộc cấp phối hợp thi hành, nhất là trong việc cấp các giấy phép hoặc các giấy chứng nhận về sinh và tử.
3. Chuyển tiếp. – Trong thời gian chuẩn bị thi hành bản điều lệ mới, các địa phương vẫn tiếp tục đăng ký và cấp phát theo chế độ cũ, thủ tục cũ, sổ sách cũ.
4. Tuyên truyền vận động. – Bộ Nội vụ sẽ in và phân phát một quyển sách nhỏ gồm các văn bản chính về thể lệ mới và một quyển hộ tịch thường thức để phổ biến chủ trương chính sách được sâu rộng và hướng dẫn nhân dân và cán bộ trong việc thi hành.
5. Vùng thiểu số. – Đối với các vùng dân tộc thiểu số, Bộ Nội vụ có Thông tư riêng.
Bản điều lệ đăng ký hộ tịch này đáp ứng một yêu cầu rộng lớn và cấp bách của Chính phủ và của nhân dân hiện nay. Công việc đăng ký cấp phát mỗi ngày sẽ tăng lên và dồn đến nhiều, nếu không chú ý đúng mức ngay từ đầu thì sau sẽ gặp nhiều khó khăn phức tạp, phiền cho nhân dân và mất công cho cán bộ trong việc theo dõi, thống kê, tra cứu, v.v…
Vậy Bộ đề nghị các Ủy ban hành chính thành phố, tỉnh và huyện sắp xếp mọi việc cho có nề nếp ngay từ đầu nhất là ở các cấp cơ sở.

Hướng dẫn

Việc chấn chỉnh tố chức và sổ sách theo Điều lệ này được hướng dẫn bởi Mục II Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956

Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956 thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Nội Vụ ban hành


Chính phủ mới ban hành một bản điều lệ đăng ký hộ tịch cải tiến và thống nhất các thể lệ hiện hành, đơn giản các sổ sách và thủ tục đăng ký, nhằm mục đích làm cho nhân dân khai báo và xin giấy tờ hộ tịch được dễ dàng và Chính phủ có cơ sở theo dõi thống kê các việc biến chuyển trong dân số. Thông tư này nêu lên một số điểm cần chú ý trong bản điều lệ mới vì tính chất tiến bộ hơn, hợp lý hơn của nó so với thể lệ cũ, đồng thời quy định mấy việc chính về chấn chỉnh tổ chức và sổ sách. cuối cùng là việc chuẩn bị thi hành.
...
II. CHẤN CHỈNH TỔ CHỨC VÀ SỔ SÁCH
1. Ở các thành phố việc đăng ký hộ tịch phải chuyển giao dần xuống cho các Ủy ban hành chính khu phố (hay quận hành chính) phụ trách. Phòng hộ tịch của Ủy ban hành chính thành phố sẽ giải tán, chỉ giữ lại một bộ phận nhỏ phụ trách việc in và phân phối các sổ sách mới, bảo quản các sổ sách lưu, cấp phát các bản sao trích trong các sổ lưu, làm thống kê, báo cáo về các việc biến chuyển trong dân số qua công tác hộ tịch.
2. Sổ sách mới phải in bằng giấy tốt và bền, in đúng nội dung và kích thước của mẫu kèm theo Thông tư này. Từ nay không cấp các bản chính mà chỉ cấp các bản sao nội dung thống nhất cho mỗi loại chứng thư sinh, tử hay kết hôn.
3. Cấp bản sao. - Khi đăng ký xong một việc sinh, tử hay kết hôn, phải cấp ngay một bản sao đầu tiên không lấy tiền. đó là một quyền lợi nhân dân mới được hưởng phải được coi trọng và bảo đảm, nó còn có tác dụng khuyến khích nhân dân khai cho hết, cho đúng, cho kịp. Các bản sao về sau chỉ thu mỗi bản 50 đồng, các lệ phí khác các địa phương hiện đương thu khi cấp hay chứng nhận các giấy tờ hộ tịch đều bãi bỏ hết.
4. Lưu sổ cũ. - Ở các tỉnh, các sổ sách cũ lưu ở Tòa án các huyện nên chuyển lên Ủy ban hành chính tính bảo quản và cấp phát các bản sao mỗi khi cần thiết.

Hướng dẫn

Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 3 Thông tư 1326-HCTP năm 1956

Thông tư 1326-HCTP năm 1956 thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Tư pháp ban hành


Thủ tướng phủ có ra nghị định số 764-TTg ngày 8 tháng 5 năm 1956 quy định điều lệ đăng ký hộ tịch và Bộ Nội vụ có thông tư số 6-NV-DC-TT ngày25-5-1956 hướng dẫn thi hành điều lệ này.
...
3) Về việc khai tử
Theo điều 21 của bản điều lệ đăng ký hộ tịch mỗi khi thi hành xong một bản án xử tử hình Toà án cấp giấy phép mai táng và báo cho Uỷ ban hành chính sở tại để đăng ký việc tử.

Hướng dẫn

Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 4 Thông tư 1326-HCTP năm 1956

Thông tư 1326-HCTP năm 1956 thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Tư pháp ban hành


Thủ tướng phủ có ra nghị định số 764-TTg ngày 8 tháng 5 năm 1956 quy định điều lệ đăng ký hộ tịch và Bộ Nội vụ có thông tư số 6-NV-DC-TT ngày25-5-1956 hướng dẫn thi hành điều lệ này.
...
4) Về việc mất tích
Việc mất tích nêu ở điều 27 của bản điều lệ đăng ký hộ tịch là trường hợp những cá nhân đi mất tích, gia đình không nhận được tin tức, không rõ hiện sống hay chết, lâu nay về pháp lý thường gọi là thất tung.
Điều 27 quy định việc mất tích phải được đăng ký vào sổ khai tử. Việc đăng ký này chỉ có mục đích thống kê tình hình trong nhân dân, không có ý nghĩa là đứng về pháp lý xem người mất tích như đã chết để giải quyết quyền dân sự và quyền gia đình của người ấy như đối với người chết. Đối với người mất tích, Toà án vẫn còn trách nhiệm giải quyết theo luật pháp hiện hành. Khi bản án công nhận sự mất tích đã thành nhất định thì Toà án cấp cho thân nhân người ấy một trích lục án để đem xin đăng ký một việc khai tử với Uỷ ban hành chính nơi cư trú cuối cùng của người mất tích hoặc nơi cư trú hiện nay của thân nhân người ấy. Đồng thời Toà án tống đạt bản án cho những nơi cần tống đạt để thi hành án theo thủ tục hiện hành.

Hướng dẫn

Điều này được hướng dẫn bởi Điểm 5 Thông tư 1326-HCTP năm 1956

Thông tư 1326-HCTP năm 1956 thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Tư pháp ban hành


Thủ tướng phủ có ra nghị định số 764-TTg ngày 8 tháng 5 năm 1956 quy định điều lệ đăng ký hộ tịch và Bộ Nội vụ có thông tư số 6-NV-DC-TT ngày25-5-1956 hướng dẫn thi hành điều lệ này.
...
5) Xử lý đối với những trường hợp đăng ký quá hạn
Điều 8 của điều lệ đăng ký hộ tịch quy định: “Người có nhiệm vụ xin đăng ký mà để quá hạn không khai, sẽ bị phê bình, và có thể bị phạt vi cảnh”.
Đối với những vụ đăng ký quá hạn, đường lối giải quyết chủ yếu là phê bình để giáo dục. Nhưng đặc biệt đối với những người cố ý chay lười, mà Uỷ ban hành chính địa phương thấy cần áp dụng một hình thức giáo dục cao hơn thì mới phạt vi cảnh. Trong trường hợp này Uỷ ban hành chính địa phương sẽ đề nghị với Toà án xử phạt.

Hướng dẫn

Điều này được hướng dẫn bởi Thông tư 1326-HCTP năm 1956

Thông tư 1326-HCTP năm 1956 thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Tư pháp ban hành


Thủ tướng phủ có ra nghị định số 764-TTg ngày 8 tháng 5 năm 1956 quy định điều lệ đăng ký hộ tịch và Bộ Nội vụ có thông tư số 6-NV-DC-TT ngày25-5-1956 hướng dẫn thi hành điều lệ này.
Theo các văn bản nói trên thì từ nay về sau:
1. Toà án không kiêm, ký và giữ các sổ sách về hộ tịch trừ các sổ sách hộ tịch cũ lưu trữ tại Toà án tiếp tục giữ cho đến khi có thể chuyển lên Uỷ ban hành chính tỉnh được.
2. Toà án không phải làm những bản án cho phép đăng ký các việc sinh, tử, kết hôn quá hạn và cho phép sửa chữa những điều sai lầm hoặc thiếu sót trước ngày 8 tháng 5 năm 1956 cũng như sau ngày đó.
Điều lệ đăng ký hộ tịch mới giao những việc trên này cho Uỷ ban hành chính các cấp phụ trách.
Vậy xin lưu ý các Toà án về những điểm thay đổi trên, đồng thời xin nhắc lại những việc Toà án còn phải làm đối với việc đăng ký hộ tịch sau khi thi hành điều lệ mới.
Trong những việc thay đổi về tình hình hộ tịch nêu ở điều 26 của bản điều lệ đăng ký hộ tịch có những việc sau này thuộc thẩm quyền của toà án.

Từ khóa: Nghị định 764-TTg, Nghị định số 764-TTg, Nghị định 764-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định số 764-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định 764 TTg của Thủ tướng Chính phủ, 764-TTg

File gốc của Nghị định 764-TTg năm 1956 Điều lệ đăng ký hộ tịch đang được cập nhật.

Quyền dân sự

  • Chỉ thị 23/CT-UBND năm 2021 về tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ tham gia công an nhân dân năm 2022 do thành phố Hà Nội ban hành
  • Chỉ thị 15/CT-UBND năm 2021 về tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân năm 2022 do tỉnh Yên Bái ban hành
  • Chỉ thị 33/CT-UBND năm 2021 về tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân năm 2022 do tỉnh Nam Định ban hành
  • Kế hoạch 153/KH-UBND năm 2021 triển khai Thỏa thuận toàn cầu về Di cư hợp pháp, an toàn và trật tự của Liên hợp quốc trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
  • Quyết định 13/2021/QĐ-UBND về Quy chế phối hợp quản lý người nước ngoài cư trú, hoạt động trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
  • Quyết định 1545/QĐ-CTN năm 2021 về cho thôi quốc tịch Việt Nam đối với bà Nguyễn Thị Phương Thảo do Chủ tịch nước ban hành
  • Kế hoạch 237/KH-UBND năm 2021 thực hiện Quyết định 1252/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tăng cường thực thi hiệu quả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và các khuyến nghị của Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc trên địa bàn tỉnh Hà Giang
  • Kế hoạch 2666/KH-UBND năm 2021 triển khai Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự của Liên hợp quốc trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
  • Quyết định 37/2021/QĐ-UBND về Quy chế phối hợp trong quản lý người nước ngoài cư trú, hoạt động trên địa bàn tỉnh Tiền Giang
  • Quyết định 2995/QĐ-UBND năm 2021 về Quy chế phối hợp liên ngành về giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh Lào Cai

Nghị định 764-TTg năm 1956 Điều lệ đăng ký hộ tịch

- File PDF đang được cập nhật

- File Word Tiếng Việt đang được cập nhật

Chính sách mới

  • Giá xăng hôm nay tiếp tục giảm sâu còn hơn 25.000 đồng/lít
  • Nhiệm vụ quyền hạn của hội nhà báo
  • Gia hạn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng năm 2023
  • Thủ tục đăng ký kết hôn trực tuyến
  • Sửa đổi, bổ sung một số quy định hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp
  • Tiêu chí phân loại phim 18+
  • Danh mục bệnh Nghề nghiệp được hưởng BHXH mới nhất
  • Quy chế tổ chức và hoạt động của trường phổ thông dân tộc nội trú
  • Điều kiện bổ nhiệm Hòa giải viên tại Tòa án
  • Văn bản nổi bật có hiệu lực tháng 5/2023

Tin văn bản

  • Chính sách mới có hiệu lực từ ngày 01/07/2022
  • Đầu tư giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án Khu dân cư nông thôn mới Phú Khởi, xã Thạnh Hòa, huyện Phụng Hiệp
  • Danh mục mã hãng sản xuất vật tư y tế để tạo lập mã vật tư y tế phục vụ quản lý và giám định, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế
  • Từ 11/7/2022: Thuế bảo vệ môi trường đối với xăng còn 1.000 đồng/lít
  • Người lao động đi làm việc tại Hàn Quốc được vay đến 100 triệu đồng để ký quỹ
  • HOT: Giá xăng, dầu đồng loạt giảm hơn 3.000 đồng/lít
  • Hỗ trợ đơn vị y tế công lập thu không đủ chi do dịch Covid-19
  • Hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
  • Phấn đấu đến hết 2025, nợ xấu của toàn hệ thống tổ chức tín dụng dưới 3%
  • Xuất cấp 432,78 tấn gạo từ nguồn dự trữ quốc gia cho tỉnh Bình Phước

Tóm tắt

Cơ quan ban hành Thủ tướng Chính phủ
Số hiệu 764-TTg
Loại văn bản Nghị định
Người ký Phan Kế Toại
Ngày ban hành 1956-05-08
Ngày hiệu lực 1956-06-02
Lĩnh vực Quyền dân sự
Tình trạng Đã hủy

Văn bản Được hướng dẫn

  • Công văn 272/HTQTCT-HT năm 2017 về hướng dẫn nghiệp vụ hộ tịch do Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực ban hành

Văn bản Hướng dẫn

  • Thông tư 06-NV-DC-TT năm 1956 thi hành Điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Nội Vụ ban hành
  • Thông tư 1326-HCTP năm 1956 thi hành điều lệ đăng ký hộ tịch mới do Bộ Tư pháp ban hành
  • Chỉ thị 3484-HTTK năm 1957 về khai báo và xin đăng ký kết hôn cho quân nhân do Bộ Nội vụ ban hành

DỮ LIỆU PHÁP LUẬT - Website hàng đầu về văn bản pháp luật Việt Nam, Dữ Liệu Pháp Luật cung cấp cơ sở dữ liệu, tra cứu Văn bản pháp luật miễn phí.

Website được xây dựng và phát triển bởi Vinaseco Jsc - Doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực chuyển đổi số lĩnh vực pháp lý.

NỘI DUNG

  • Chính sách mới
  • Tin văn bản
  • Kiến thức luật
  • Biểu mẫu
  • Media Luật

HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG

  • Giới thiệu
  • Bảng giá
  • Hướng dẫn sử dụng
  • Chính sách bảo mật
  • Điều khoản sử dụng

CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ SỐ VINASECO

Địa chỉ: Trần Vỹ, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam - Email: [email protected] - Website: vinaseco.vn - Hotline: 088.66.55.213

Mã số thuế: 0109181523 do Phòng DKKD Sở kế hoạch & Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp ngày 14/05/2023

  • Trang chủ
  • Văn bản mới
  • Chính sách mới
  • Tin văn bản
  • Kiến thức luật
  • Biểu mẫu